Quy Trình Kỹ Thuật Sản Xuất Giống Cá Sặc Rằn
Ao nuôi có diện tích trung bình từ 1.000 - 3.000m2, gần kênh rạch, ao được xây dựng với hệ thống cấp và thoát nước riêng. Bờ bao quanh phải đủ cao, chắc chắn nhằm tránh mất nước và thất thoát cá trong mùa mưa ngập lũ.
Trước khi nuôi, ao phải được tát cạn nước, vét bớt lớp bùn đáy ao, dọn vệ sinh xung quanh bờ và trong ao nuôi, sau đó tiến hành bón vôi.
Bón vôi có tác dụng cải tạo đất và tiêu diệt các loài cá tạp và địch hại gây hại cho cá. Liều lượng sử dụng : 10 - 15 kg/m2, phơi đáy ao từ 3 - 5 ngày sau đó lấy nước vào ao. Nước lấy vào ao phải thông qua lưới lọc, khi mức nước trong ao đạt từ 1,5 - 1,8 m tiến hành thả cá vào nuôi.
Tiêu chuẩn chọn cá bố mẹ :
- 12 - 18 tháng tuổi, trọng lượng trung bình từ 70 - 100g/con.
- Khỏe mạnh, không bị xây xát hoặc có dấu hiệu bị nhiễm bệnh, không bị dị hình và dị dạng.
Mật độ nuôi vỗ: dao động từ 0,5 - 1 kg/m2.
Thức ăn nuôi vỗ: chủ yếu là thức ăn viên dạng nổi có hàm lượng đạm dao động từ 28 - 35 %, kích cỡ viên thức ăn phù hợp với kích cỡ miệng của cá. Khẩu phần cho cá ăn mỗi ngày dao động từ 1,5 - 2 % trọng lượng đàn/ngày, tần suất cho ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều. Thời gian nuôi vỗ thành thục sinh dục thường kéo dài từ 3 - 4 tháng: thông thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Đầu tháng 4 tiến hành kiểm tra mức độ thành thục sinh dục của cá 3;ể chuẩn bị cho cá sinh sản.
Cá bố mẹ Sặc rằn sau khi nuôi vỗ tích cực được từ 1 - 2 tháng, tiến hành kiểm tra mức độ thành thục sinh dục để chọn ra những con cá có biểu hiện thành thục tốt, tiếp tục nuôi vỗ thành thục sinh dục cho nhu cầu sinh sản sau đó.
Cá cái: vây lưng ngắn, sọc trên thân cá không hiện rõ, bụng to và mềm.
Cá đực: vây lưng dài tới chơn đuôi, sọc trên thân cá hiện rõ.
Dùng kích dục tố kích thích cá Sặc rằn sinh sản
Loại kích dục tố thường dùng là HCG + não thùy thể cá Chép với lượng 3.000UI HCG + 5 não thùy/kg cá cái. Liều sử dụng cho cá đực bằng 1/3 liều cá cái.
Vị trí tiêm thuốc góc vây ngực, sâu 1/3 kim tiêm lệch một góc 450 hướng về phía bụng. Sau khi tiêm thuốc xong cho cá vào bể đẻ đã được chuẩn bị sẳn.
Thời gian cá hiệu ứng thuốc dao động từ 8 - 15 giờ sau khi tiêm thuốc, cá đẻ trứng xong sau 24 giờ tính từ lúc tiêm cá. Sau khi cá đẻ xong khoảng từ 4 - 5 giờ thì vớt trứng ra ấp riêng, do ở giai đoạn này cá bố mẹ thường ăn lại trứng của nó sau khi sinh sản.
Chuẩn bị bể ấp trứng: có thể dùng thau lớn, bể composit để ấp trứng cá là tốt thay nước 2 lần/ngày, mỗi lần thay từ 20 - 30 % lượng nước trong bể. Lượng trứng ấp trung bình khoảng 700 - 1.000 trứng /lít nước. Thời gian trứng nở tính từ lúc cá sinh sản từ 22 - 26 giờ.
Sau khi cá nở khoảng 1- 2 ngày đầu cá bột không ăn gì, giai đoạn này cá chỉ tiêu hóa bằng noãn hoàng, sau khi cá bột tiêu hóa hết noãn hoàng, cá bắt đầu ăn ngoài giai đoạn này nên chuyển cá bột xuống ao ương.
Ao ương cá bột phải được chuẩn bị thật tốt, các thao tác kỹ thuật giống như ao nuôi vỗ cá bố mẹ, nhưng ao ương cá bột sau khi lấy nước vào nên gây màu nước, có thể gây màu nước bằng bột sữa (1kg/1.000m2 ) và bột đậu nành (1kg/1.000m2). Sau khi ao chuẩn bị xong được khoảng từ 1 - 2 ngày thì tiến hành thả cá bột để ương.
Cá bột nên thả vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát là tốt nhất, trước khi thả cá bột nên để bao cá bột ngâm vào trong nước khoảng 15 phút, sau đó đưa nước ngoài ao vào bao cá bột và từ từ thả cá bột ra ngoài ao, cá bột nên thả đều khắp ao.
Mật độ ương cá bột hiện nay dao động từ 700 - 1.000 con/m2.
Thời gian ương cá bột thành cá giống trung bình 75 ngày.
Thức ăn: bao gồm thức ăn bột đậm đặc hoặc bột đậu nành kết hợp với lòng đỏ trứng theo kế hoạch như sau:
+ Tuần 1: dùng 2 kg bột đậu nành + 10 lòng đỏ trứng/1.000m2/ ngày (chia làm bốn lần), thức ăn được hòa với nước và tạt điều khắp ao.
+ Tuần 2: dùng 3 kg bột đậm đặc + 1kg cám nhuyễn/1.000 m 2 /ngày, thức ăn được trộn đều lại với nhau và rải khắp ao.
+ Từ tuần thứ 3 trở về sau thức ăn tăng gấp đôi (tùy thuộc vào lượng cá trong ao ương mà lượng thức ăn có thể điều chỉnh tăng lên hay giảm xuống).
+ Từ tuần thứ 4 trở về sau nên dùng thức ăn viên nổi dạng nhỏ để phù hợp với kích thước của miệng cá.
Sau khi ương cá giống được 75 ngày thì thu giống lúc này cá giống có trọng lượng trung bình khoảng 300-400 con/kg. Trước khi thu hoạch cá giống phải giảm thức ăn từ 1 - 2 ngày và có kế hoạch luyện cá ít nhất là 10 ngày trước khi kéo thu giống.
- Trong giai đoạn ương giống cá thường bị một số bệnh như ký sinh trùng, nấm và thoái đuôi. Trong quá trình ương giống nên có kế hoạch xử lý môi trường ao ương bằng BKC 80 % với liều lượng 1lít/2.000m3 hoặc Formalin 7-10 ppm, xử lý liên tục trong vòng 1 - 2 ngày theo chu kì 10 ngày/ lần bắt đầu từ ngày thứ 12 cho đến khi thu giống .
- Trong thức ăn nên trộn thêm một số chất như Vitamin C, Premix với liều lượng 2-3g/kg thức ăn. Định kỳ cho cá ăn khoảng 7 - 10 ngày một lần và cho ăn liên tục trong vòng 5 - 7 ngày nhằm tăng sức đề kháng cho cá, ngăn ngừa các bệnh nêu trên.